Bởi vì thấu hiểu cho nên từ bi
Phan_12
“Tiếng mưa rào rào, giống như đứng bên bờ suối. Thà nguyện ngày ngày trời đổ mưa, để cho rằng vì trời mưa nên em không tới”. Trong Tiểu đoàn viên, Cửu Lị là hóa thân của Trương Ái Linh, còn “em” ở đây chính là Yến Sơn. “Cái ngày sinh nhật thứ ba mươi, trong màn đêm, nằm trên giường nhìn thấy ánh trăng rải trên ban công, lan can bằng xi măng giống như một tấm bia bị đổ đang nằm ngang ở đó, tắm trong ánh trăng màu lam của thời Vãn Đường. Ánh trăng của hơn một nghìn năm trước, nhưng lại xuất hiện quá nhiều trong ba mươi năm cuộc đời của cô, giống như một tấm bia mộ nặng nề đè trên trái tim”.
Đoạn tình duyên này của Trương Ái Linh và Tang Hồ, đã kết thúc như thế. Dường như căn bản nó chưa từng bắt đầu mà đã đi qua. Nhưng khúc nhạc nền này, lại thực sự lưu lại dấu ấn trong cuốn sách cuộc đời của Trương Ái Linh. Thứ mà Tang Hồ đem đến cho Trương Ái Linh, hẳn là một thứ tình cảm ấm áp đến suốt đời. Anh không làm tổn thương, mà chỉ trong lúc cô cô đơn nhất, khẽ khàng đến bên, rồi lại nhẹ nhàng rời đi.
Sau này, Tang Hồ kết hôn với một cô gái ngoại quốc, hai bên tương kính như tân. Có lẽ cuộc sống như thế hợp với Tang Hồ hơn, với cá tính của mình, anh sẽ không kìm chế được những con sóng tình cảm, mà Trương Ái Linh chắc chắn không phải là một cô gái bình thường, cô không thể mang lại thứ hạnh phúc êm đềm như khói bếp cho Tang Hồ. Sự mâu thuẫn và cô độc lạnh lẽo trong nội tâm của cô, không phải là thứ mà Tang Hồ có thể chịu đựng nổi. Đóa hoa nở ra từ giữa bụi trần này, chỉ thích hợp để lặng lẽ thưởng ngoạn từ xa. Anh không có dũng khí hái hoa, và cũng thiếu cả tư cách hái hoa.
Năm sau, Trương Ái Linh từ Thượng Hải đi Hương Cảng. Sau đó, cô và Tang Hồ cũng chưa từng gặp lại. Năm 1995, khi Trương Ái Linh qua đời, rất nhiều người đến viết văn tưởng niệm Trương Ái Linh, duy chỉ có Tang Hồ vẫn giữ im lặng. Có lẽ từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, tình yêu của anh dành cho Trương Ái Linh đều dùng sự im lặng để đối đãi.
Bởi vì thấu hiểu, cho nên lặng im. Tang Hồ cũng giống như Trương Ái Linh, là một đóa hoa trôi trên biển, đến và đi như gió, chớp mắt thôi đã thành mây trôi ngang trời, năm tháng cẩm sắt, đôi bên cùng lãng quên nhau.
Tình duyên nửa cuộc đời
Chúng ta không thể quay trở về được nữa, không thể quay trở về nữa. Có lẽ tình yêu không phải là nhiệt tình, cũng không phải là hoài niệm, chẳng qua chỉ là năm tháng, năm lâu tháng dài đã trở thành một phần của cuộc đời.
(Trương Ái Linh ngữ lục)
Người ta nhận xét rằng, cuộc đời của những cô gái thời Dân Quốc đều không được như ý. Tiêu Hồng có số mệnh đau khổ, Lục Tiểu Mạn qua đời trong lạnh lẽo cô đơn, Thạch Bình Mai là đóa quỳnh vụt nỡ, Tô Thanh chịu kết cục buồn thảm. Còn có rất nhiều cái tên mà chúng ta biết hoặc không biết, dường như họ đều không vui vẻ, đều để những năm tháng thanh xuân như hoa trôi đi trong khổ đau lầm lỡ. Đến Trương Ái Linh, cũng như vậy. Nếu nói tuổi xuân tươi đẹp là một canh bạc, vậy thì bọn họ đều là những cô gái tình nguyện thua bạc, cô độc qua đời trong mùa hoa rực rỡ, không cần hỏi đến nhân quả.
Có người từng nói, Trương Ái Linh là kiểu con gái đi giữa dòng người, chỉ cần liếc mắt cũng có thể nhận ra. Thân hình cao gầy, tâm sự bị buộc chặt trong lớp áo sườn xám, có chút cao ngạo, có chút xa cách, có chút khiêu khích, lại có chút lạnh lùng. Mất Hồ Lan Thành, chịu đựng sự biến chuyển của thời đại và sự trách cứ của dân chúng, rồi bỏ lỡ tình cảm như có như không của Tang Hồ. Trương Ái Linh chỉ cảm thấy đời người càng thêm lạnh lẽo tiêu điều; hồng trần với cô, không còn mùi vị gì nữa.
Mỗi đêm, dưới ánh đèn quạnh quẽ, làm bạn với cô vẫn là những con chữ. Mà thứ cô tin tưởng, cũng chỉ là con chữ. Chỉ có khi làm bạn với văn chương, cô mới cảm thấy yên ổn như thuở xưa. Những tháng ngày này, Trương Ái Linh vẫn ở cùng với người cô, họ dọn nhà ra khỏi chung cư Eddington, đến ở trong căn hộ số 11 gồm một phòng khách hai phòng ngủ ở căn nhà hai tầng ở tiểu khu Trùng Hoa Tân Thôn. Thời gian này, mẹ cô, Hoàng Dật Phạn, lại từ nước ngoài trở về. Người phụ nữ từng tài hoa nở rộ này, trải qua mấy độ dâu bể, cũng không chống đỡ lại được thời gian.
Cuộc sống của cha cô, Trương Đình Trọng, cũng không còn được như xưa. Ông và Tôn Dụng Phàn không thể thiếu được ả phù dung, chỉ dựa vào việc bán dần bất động sản, cầm cố đồ đạc để duy trì món chi phí khổng lồ đó. Nhà ở càng ngày càng nhỏ, cuối cùng đến mức phải trú thân trong một căn phòng nhỏ rộng có khoảng chục mét vuông. Tòa nhà hào nhoáng năm xưa, đã bị lịch sử trời long đất lở chôn vùi, chỉ còn lưu lại một nắm đất bụi, để cho họ hoài niệm.
Lần này mẹ cô về, bà dọn đến ở cùng cô và Trương Mậu Uyên. Ba người phụ nữ thê lương ấy, dựa vào nhau để tìm hơi ấm. Nhưng Hoàng Dật Phạn lưu lại Thượng Hải chỉ có hai năm rồi lại ra nước ngoài. Đã từ lâu bà không quen với môi trường sống hỗn loạn ở thành phố Thượng Hải này, linh hồn của bà đã tìm được chốn về thanh tịnh ở nước ngoài, lần ra đi này sẽ không quay về nữa. Trước khi đi, Hoàng Dật Phạn đã có một cuộc nói chuyện rất dài với Trương Ái Linh, bà đề nghị Trương Ái Linh rời Thượng Hải, đi Hương Cảng. Bà cho rằng sự phức tạp của Thượng Hải không thích hợp cho công việc sáng tác của Trương Ái Linh.
Mẹ đi rồi, vạn nước nghìn non, từ đây chân trời cách biệt, thân ai người nấy yên ổn. Nhớ lại, Trương Tử Tĩnh kể: “Năm 1938, chị tôi trốn khỏi nhà cha. Năm 1948, mẹ tôi rời hẳn Trung Quốc. Họ đều không ngoái đầu nhìn lại”. Là vận mệnh không cho phép họ ngoái đầu, là thời đại không cho phép họ ngoái đầu. Bọn họ chỉ có thể bắt đầu một cuộc sống mới, diễn một câu chuyện mới, trong một môi trường mới. Bất luận có tình nguyện hay không, có hạnh phúc hay không.
Lịch sử giở qua trang viết nặng nề đó, tất cả lại đều mới mẻ. Thượng Hải đổ nát chờ thời cơ tái sinh, đã khuấy động biết bao nhân vật nhiệt tình. Lúc bấy giờ, Hạ Diễn, một trong những nhà tiên phong của cuộc vận động văn hóa mới Trung Quốc, là nhà văn, nhà làm phim, biên kịch nổi tiếng, rất chú ý đến hiện trạng của giới văn nghệ Thượng Hải. Chính vào lúc đó, Kha Linh đã tiến cử tiểu thuyết của Trương Ái Linh với ông. Hạ Diễn rất tâm đắc với tác phẩm của cô. Sau này, ông tìm đến Đường Kỷ Thường và Cung Chi Phương, mời họ hợp tác cùng mở một tờ báo nhỏ về sức khỏe.
Được sự ủng hộ của Hạ Diễn, Đường Kỷ Thường và Cung Chi Phương lập ra tờ Diệc báo. Họ mời Trương Ái Linh gửi bản thảo và cô đã đồng ý, nhưng Trương Ái Linh có một yêu cầu, đó là dùng bút danh để đăng bài. Có lẽ người đã lướt qua ngàn cánh buồm như Trương Ái Linh không muốn gây thị phi, sự việc của Hồ Lan Thành đã gây tổn thương quá lớn cho cô, cô cần một cuộc sống an ổn. Dùng bút danh để che chắn mưa gió của hồng trần, là một cách tự bảo vệ mình của cô.
Bút danh của Trương Ái Linh là Lương Kinh. Cô học tập tiểu thuyết gia Trương Hận Thủy viết tiểu thuyết chương hồi, vừa viết vừa đăng báo. Cuốn tiểu thuyết cô viết lần này Mười tám mùa xuân là tác phẩm được độc giả yêu thích nhất, kể từ sau khi cô bặt tăm. Đến nay, trong số độc giả của Trương Ái Linh, có rất nhiều người vẫn cực kỳ yêu thích Mười tám mùa xuân. Mười tám mùa xuân kể về một câu chuyện ở Thượng Hải, xảy ra cùng thời với Trương Ái Linh. Mười tám mùa xuân, tức là câu chuyện bắt đầu viết từ năm 1949 trở về mười tám năm trước.
Chỉ riêng tên gọi của bộ tiểu thuyết này đã thu hút sự tò mò của độc giả. Đăng liên tiếp mấy ngày, đã bắt đầu có độc giả nhiệt tình chú ý tới Mười tám mùa xuân. Cung Chi Phương đánh giá rất cao bộ tiểu thuyết này, mấy ngày sau liền cho đăng dự báo, nói rõ đây là tác phẩm của một nhà văn nổi tiếng. Có lẽ có những độc giả trung thành của Trương Ái Linh, đã đoán ra Lương Kinh chính là cô. Nhưng những điều này dường như không còn quan trọng nữa, họ chỉ say mê tình tiết câu chuyện trong tiểu thuyết, lật đọc trang báo đã trở thành sự chờ đợi không thể thiếu trong cuộc sống của họ.
Mười tám mùa xuân kể về mối tình khắc cốt ghi tâm của cô gái bình dân Cố Mạn Trinh và công tử thế gia Thẩm Thế Điếu, họ vốn là nam thanh nữ tú, một cặp trời sinh. Nhưng vận mệnh trớ trêu, Thẩm Thế Điếu vì cha bệnh nặng nên vội vã quay về Nam Kinh, còn Cố Mạn Trinh bị người chị luôn nuông chiều cô là Cố Mạn Lộ hãm hại, rơi vào tình thế cực kỳ đáng sợ, từ đây bắt đầu cuộc đời muôn vàn đau khổ nối tiếp. Mạn Lộ vì muốn trói buộc trái tim của người chồng là Chúc Hồng Tài, không muốn anh ta đi hỏi liễu tìm hoa, đã giam lỏng quản thúc em gái như hoa như ngọc của mình một cách không thương tiếc. Chúc Hồng Tài đã nhúng chàm, đến nỗi khi Mạn Trinh sinh con mới chịu thôi.
Đối mặt với sự mất tích đột ngột của Mạn Trinh, Thẩm Thế Điếu lòng muôn phần lo lắng. Anh hỏi thăm tung tích của Mạn Trinh từ chỗ của Mạn Lộ, nhưng Mạn Lộ lại nói dối là Mạn Trinh đã đi lấy chồng, sẽ không bao giờ quay lại nữa. Trong lúc đau lòng, Thẩm Thế Điếu đã lấy một cô gái con nhà gia thế khác, còn Mạn Trinh tự biết mình là hoa tàn liễu úa, sau khi Mạn Lộ chết, cô gạt nước mắt lấy Chúc Hồng Tài. Câu chuyện trăm chuyển ngàn hồi này, vở bi kịch khiến người ta phẫn nộ căm giận, khiến độc giả đều phải theo dõi tờ báo mỗi ngày, hận không thể cùng chung vui buồn với các nhân vật.
Mười tám năm sau, Cố Mạn Trinh và Thẩm Thế Điếu gặp lại nhau, hai người khóc lóc nức nở. Thẩm Thế Điếu hy vọng còn có thể làm lại từ đầu, nhưng vận mệnh đã sớm chia cắt họ thành người của hai thế giới khác. Mười tám năm, biển xanh mấy độ thành nương dâu. Cố Mạn Trinh rưng rưng nước mắt nói: “Thế Điếu, chúng ta không thể quay trở về được nữa, không thể quay trở về nữa”. Chỉ một câu nói này, đã khiến độc giả khóc òa, thở dài không ngớt. Thẩm Thế Điếu hồi tưởng chuyện cũ, nỗi tiếc nuối không gì lấy lại được đó, khiến anh ngậm ngùi muôn phần.
Bộ tiểu thuyết Mười tám mùa xuân sau này đã được Trương Ái Linh đổi thành Bán sinh duyên (Mối duyên nửa cuộc đời). Một lần bỏ qua, là lỡ tình duyên nửa cuộc đời. Nếu như không phải mười tám năm sau không hẹn mà gặp, có lẽ cả đời này Thẩm Thế Điều cũng không thể nào có được lời giải đáp. Còn đối với Cố Mạn Trinh gặp lại người yêu cũ, có thể nói rõ nguyên nhân trước đây, bày tỏ hết thảy nỗi lòng, cũng là một sự giải thoát. Cho dù kế cục này khiến vô vàn độc giả đau lòng, chỉ là quá khứ như mộng, những năm tháng đã đi qua, ai có thể quay đầu lại được? Trương Ái Linh không để họ sống đến già với một câu đó, đã là từ bi lắm rồi.
Mười tám mùa xuân vừa được đăng lên, đã gây chấn động toàn Bến Thượng Hải. Tiểu thuyết miêu tả quá sức chân thực, khiến độc giả đọc say mê không dứt. Thậm chí họ còn bộc lộ rất nhiều phản ứng lạ thường khác nhau, vui buồn giận dữ bất định. Rất nhiều danh nhân văn hóa đương thời cũng tìm đọc bộ tiểu thuyết này. Tang Hồ viết một bài giới thiệu gửi tới độc giả, trong đó anh cực kỳ khen ngợi, nói: “Lương Kinh không những có tài hoa sáng tác tuyệt vời, thái độ sáng tác của anh ta cũng hết sức nghiêm túc tỉ mỉ, quả thực hiếm có. Về mặt phong cách, tiểu thuyết và tản văn của anh có những nét độc đáo đặc biệt… Tôi đọc sáng tác mới của Lương Kinh, Mười tám mùa xuân, dường như cảm thấy anh ta đang thay đổi. Tôi cảm thấy anh ta vẫn giữ được sắc điệu tươi sáng, đẹp đẽ vốn có, nhưng đồng thời, trên phương diện suy tư cảm xúc, anh ta cũng thể hiện sự trầm mặc mà yên ổn hơn so với trước đây, đây chính là tiến bộ đáng mừng của anh ta”.
Khi ấy, mỗi ngày Diệc báo đều nhận được một lượng lớn thư của độc giả, lúc này thậm chí còn vượt qua thành tựu mấy năm trước của Trương Ái Linh. Đường Kỷ Thường nhận thấy thành quả to lớn như thế của Mười tám mùa xuân, bèn nhân đà thắng lợi, gấp rút hối thúc Trương Ái Linh viết một tiểu thuyết đăng liên tiếp khác. Nhưng Trương Ái Linh không đồng ý, trong lòng cô hiểu rất rõ, vinh quá hóa nhục. Trong thời gian ngắn viết tiếp một bộ tiểu thuyết còn vượt trội hơn cả Mười tám mùa xuân là điều không thể.
Nửa năm sau, Trương Ái Linh lại viết một bộ tiểu thuyết vừa Tiểu Ngải, đăng liên tiếp nhiều kỳ trên Diệc báo. Nhưng cùng với sự thay đổi của thời cuộc, chủ đề và phong cách sáng tác của Trương Ái Linh cũng thay đổi theo, điều này đối với cô cũng có chút khó làm, cho nên cuối cùng cô lại vội vã thu bút. Cô nhìn lại những biến cố dâu bể mấy năm qua của mình, cũng cảm thấy chua xót khôn tả. Kể từ khi Hồ Lan Thành bị khoét ra khỏi trái tim của cô, những gì mà anh mang lại chỉ là sỉ nhục và đau thương, nay cũng đã trở thành quá khứ. Nỗi lòng phải kiềm chế biết bao nhiêu năm, cuối cùng đã được giải phóng. Nhưng tại sao, cô không thể khiến bản thân thực sự an tĩnh, thực sự vui vẻ.
Cô cần quay người một lần nữa, quay người một cách vừa diễm lệ vừa cô đơn, lần này, không liên quan đến ai khác. Cô không muốn vì bất cứ người nào mà tàn úa rơi xuống bùn lầy, cũng không muốn vì bất cứ người nào mà vô cớ bừng nở. Hay nói cách khác, xưa nay, Trương Ái Linh chưa từng cúi đầu vì người khác. Ban đầu, nguyện trở nên hèn mọn vì Hồ Lan Thành, cũng bởi vì cô muốn thực sự yêu một lần, dùng tình yêu để thiêu cháy bản thân, để tác thành cho tuổi xuân của mình. Cho nên, từ đầu đến cuối, cô đều không hối hận. Dẫu cô đã vì người đàn ông này chịu nỗi oan khuất, thiệt thòi lớn bằng trời bằng bể, cô đều cam lòng.
Trong con mắt độc giả, văn chương của Trương Ái Linh là một bình rượu nồng, những người từng uống đều nguyện uống thỏa thê, say đến túy lúy, bất tri nhân sự mới chịu ngừng; văn chương của cô là một chiếc áo sườn xám hoa lệ thướt tha, những người đã ngắm đều nguyện làm cỏ cây dưới gấu váy ấy. Cho nên, tác phẩm qua mỗi thời kỳ của Trương Ái Linh, đều đạt đến một cảnh giới tuyệt vời, đều làm mưa làm gió ở Bến Thượng Hải. Cô không thể nào làm ra vẻ lặng ngắt như tờ được, bởi vì độc giả thích một Trương Ái Linh tài hoa tuyệt đỉnh, thích ngạo khí phi phàm và cách biểu đạt nhiều màu sắc của cô. Nếu như Trương Ái Linh trút bỏ chiếc sườn xám, đổi một bình trà trong, vậy thì cô không còn là Trương Ái Linh mà độc giả yêu thích nữa.
Cô sợ hãi rồi, cũng mệt mỏi rồi. Cô cảm thấy mình đã không còn thích hợp với sân khấu hiện tại, cho dù cô đã thành công trong việc mở màn, nhưng cô không thể diễn tiếp, cô cần rút khỏi sân khấu sớm. Chỉ là khi trút bỏ chiếc sườn xám che thân này, rời khỏi sân khấu quen thuộc này, rửa hết mọi phấn son trang điểm, cô sẽ đi đâu về đâu?
Giấc mộng Hoa Tư [1]
[1] Giấc mộng Hoa Tư: Chỉ giấc mộng hư ảo, nguyện ước về những tiếc nuối trong quá khứ, những ước mong của con người.
“Tinh tinh tinh”, lắc chiếc chuông, từng chiếc “tinh” lạnh lẽo vang lên, từng tiếng, từng tiếng xâu thành một chuỗi vô hình, chia cắt không gian và thời gian.
(Trương Ái Linh ngữ lục)
Hương Cảng quả thực là một thành phố náo nhiệt và phồn hoa, nơi đây có vô vàn hoa tươi rực rỡ và cỏ xanh mơn mởn. Thành phố này từ xưa đến nay đều gắn liền với nước, giống như bất cứ lúc nào cũng có dòng chảy ngầm cuộn trào. Đây là thành phố không thể đưa ra lời thề hẹn, nhưng lại có thể thỏa mãn nguyện ước của biết bao kẻ tự ti và kiêu ngạo. Đi trên đường phố tấp nập, không ai biết bạn từ đâu đến, sẽ đi về đâu. Bạn có thể thoải mái không kiêng dè mà mơ mộng, cũng có thể cô độc thản nhiên như không.
Xuân thu mười năm, quay đầu nhìn lại, quá khứ xa xăm đã là biển biếc nương dâu. Mười năm trước, từ nơi này cô vội vã ra đi, mười năm sau, quay đầu đất cũ, liệu có được coi là trở về hay không? Trương Ái Linh lựa chọn đến Hương Cảng một lần nữa, không chỉ để trốn tránh biến động ở Thượng Hải, mà cũng vì bắt đầu lại cuộc sống ở một nơi vừa xa lạ lại vừa quen thuộc. Đường phố huyên náo, những bước chân vội vã và những gương mặt lạnh nhạt là thứ mà cô nhìn thấy. Cô biết, người của thành phố này trong vòng xoáy bận rộn lo cho mình còn chưa xong, duy chỉ có như thế, mới có thể không bị quấy nhiễu.
Rất nhiều người không hiểu, ở Thượng Hải, Trương Ái Linh đã tìm lại được sân khấu thuộc về cô, vậy tại sao lại dứt khoát quay người như vậy? Mưa gió mấy năm, cô đã chịu đủ tủi nhục và trách móc, khó khăn lắm mới dùng văn chương để giành được bầu trời mới, nhưng cô lại từ bỏ sự tôn vinh khó khăn lắm mới có được này, một mình âm thầm vứt bỏ tất cả, lựa chọn đi đến Hương Cảng xa xôi. Là cô linh cả được điều gì? Hay chỉ là cô muốn ra đi mà thôi?
“Thời đại thật vội vã, đã nằm trong sự tàn phá, và sẽ còn có càng nhiều sự tàn phá lớn hơn ập đến”. Đây là một câu mà cô đã nói từ nhiều năm về trước, câu nói này giống như lời tiên đoán, bao trùm vận mệnh của chúng sinh. Những năm ấy, Trương Ái Linh chưa từng được yên ổn, cảm giác bức bách vẫn luôn quẩn quanh bên cạnh, khiến cô muốn chạy trốn. Cuộc đời mênh mang, cô ảo tưởng rằng bản thân mình sẽ giống như mây trôi, phiêu dạt nơi chân trời. Để trốn chạy ký ức, quên đi quá khứ, cô chỉ muốn xuất phát, bắt đầu cuộc hành trình xa xôi.
Cô chọn đến Hương Cảng, là vì nhớ đến lời dặn của mẹ trước khi bà đi, đến Đại học Hương Cảng xin học lại. Có lẽ đây chỉ là một cái cớ, nhưng cái cớ này có thể giúp cô tạm thời ở lại. Cô xin xuất cảnh, có được chứng nhận của Đại học Hương Cảng, lý do đến Hương Cảng là “Tiếp tục quá trình học tập bị gián đoạn vì chiến tranh”. Trước khi đi, cô không tiết lộ với bất cứ ai, kể cả em trai Trương Tử Tĩnh. Hơn nữa cô đã giao hẹn với người cô, hai bên không thư từ qua lại, không liên lạc với nhau.
Có thể thấy, cô đã quyết tâm quên đi tất cả, sự thê lương khi quay lưng với thế giới đó, đã trở thành số mệnh chẳng thể thoát khỏi. Em trai Trương Tử Tĩnh nghe tin chị gái đi, bàng hoàng như mất đi thứ gì, nước mắt lặng lẽ lăn xuống. Kha Linh và những danh nhân văn hóa Thượng Hải, đều biết tin sau khi cô đã đi Hương Cảng, chỉ cảm thấy tiếc nuối trước sự lựa chọn của Trương Ái Linh.
Nhưng sự ra đi của Trương Ái Linh, là đúng hay là sai? Văn chương của Trương Ái Linh, cần được mảnh đất Thượng Hải này nuôi dưỡng, rời Thượng Hải, văn chương của cô cũng nhạt màu theo. Để mất văn chương rực rỡ, cô còn là Trương Ái Linh của buổi ban đầu không? Có lẽ sự ra đi của cô là một sai lầm. Cho dù kết quả như thế nào, chúng ta đều phải tôn trọng lựa chọn của cô, tâm nguyện của cô.
Tuy nhiên, sự ra đi của Trương Ái Linh cũng là việc sáng suốt. Nếu cô ở lại Thượng Hải, không nghi ngờ gì nữa, chắc chắn cô sẽ gặp phải kiếp nạn “xét xử”. Những tài nữ Dân Quốc tài hoa tuyệt đỉnh đó đều bị thời gian tàn phá, quá khứ diễm lệ vô song ấy đã trở thành vết thương không thể chạm tới. Trương Ái Linh đi rồi, vinh quang của thành phố này không thuộc về cô, nhục nhã của thành phố này cũng không thuộc về cô. Cô là của chính cô, chỉ là của chính cô mà thôi!
Trước khi đến Hương Cảng, cô còn đến Tây Hồ Hàng Châu một chuyến. Đối diện với mặt hồ gợn sóng lấp loáng, non xanh nước biếc, Giang Nam thi ý mà văn nhân tài tử các đời mê đắm này, đối với cô lại chẳng có sức hút mấy. Dường như vẻ xinh đẹp lạnh lùng và sự thê lương quạnh quẽ của cô, không hợp chút nào với tòa thành dịu dàng này. Đê Tô trải dài, đỉnh các tao nhã mang đến cho cô một cảm giác lạnh lẽo và xa cách không thể chạm vào. Cuộc sống của Trương Ái Linh chưa bao giờ là trăng gió yếu mềm, cô thuộc về khói lửa bao trùm Dân Quốc. Cho nên cô phải ra đi, cất giấu sự cô đơn, che giấu vết thương giữa sự huyên náo.
Năm 1952, Trương Ái Linh ba mươi hai tuổi, đặt chân lên mảnh đất Hương Cảng, mà trong lòng quả thực đầy trăn trở. Chuyến tha hương này mặc dầu lạnh lẽo, thảm thương, nhưng cô tin rằng, mảnh đất này sẽ có một nơi yên ổn cho linh hồn mỏi mệt của cô. Thế sự khó vẹn toàn, nhân sinh đâu đâu cũng là sự bó buộc. Khuôn viên với vẻ rực rỡ xanh thắm ngày nào của Đại học Hương Cảng, chỉ là dung nhan của cô đã đổi khác.
Sau mấy lần gặp trục trặc, cuối cùng tháng Tám năm đó, Trương Ái Linh đã chính thức đăng ký được đi học trở lại ở trường Đại học Hương Cảng. Tuy nhiên, bấy giờ, Trương Ái Linh đã mất đi nguồn tài chính, vì số tiền tiết kiệm ít ỏi đã tiêu hết, cô bắt đầu rơi vào cảnh khốn quẩn. Không còn cách nào khác, cô đành ra ngoài tìm việc. Nghe nói cô từng nhận lời mời của Viêm Anh, đến Tokyo một chuyến, nhưng sau gặp trở ngại, lại quay ngược trở lại Hương Cảng. Việc cô vội vã đi đã khiến nhà trường nổi giận, vì thế nhà trường đã từ chối cho cô học lại.
Trương Ái Linh là một phụ nữ cao ngạo, lần này đến Hương Cảng, học lại chỉ là một lý do, cho nên bị nhà trường từ chối, đối với cô cũng chẳng có gì ghê gớm. Cô bình thản ra đi, tìm một chỗ ở tạm cho mình, bắt đầu tìm việc kiếm sống. Cô từng nói: “Hương Cảng là một thành phố xinh đẹp nhưng bi thương”. Cho nên, muốn tìm một công việc như ý thật không dễ dàng gì. Trong quá trình xin việc, cô đã vấp phải vô vàn sự lạnh nhạt và coi thường.
Nhưng Trương Ái Linh lúc đó, không còn là một cô nữ sinh chưa hiểu sự đời nữa. Cô là một nữ tác gia trẻ tuổi, tác phẩm của cô đã từng hô mưa gọi gió khắp Bến Thượng Hải. Có lẽ vinh quanh đó tuy bị thời gian làm nhạt nhòa, nhưng tài hoa từ trong cốt tủy của cô thì đến chết vẫn còn. Rất mau chóng, Trương Ái Linh tìm được công việc phiên dịch ở Sở Tin tức của Mỹ đóng tại Hương Cảng. Cô có nền tảng quốc văn vững chắc, lại thêm trình độ ngoại ngữ rất cao, biên phiên dịch với cô không phải là việc khó.
Trương Ái Linh đã dịch những tác phẩm lớn như Ông già và biển cả, Tuyển tập Emerson, Bảy tiểu thuyết lớn của nước Mỹ… Cô không có nhiều hứng thú với việc dịch văn học, đó chỉ đơn thuần là một công việc mà thôi. Thời gian này, cô còn viết kịch bản phim Cô gái nhỏ, Tương phùng Nam Bắc, phong cách văn chương thanh đạm hơn rất nhiều, nhưng vẫn không mất đi phong vị vốn có. Tẩy bỏ trang điểm phù hoa, Trương Ái Linh đã sợ hãi đám người hỗn loạn trên thế gian này. Thứ cô cần, không phải là trang sức rực rỡ, mà trang điểm tự nhiên.
Ở Hương Cảng, thứ Trương Ái Linh thích nhất không phải là công việc này, mà là hai người bạn cô kết giao được, đó là nữ sĩ Quảng Văn Mỹ và chồng cô là Tống Kỳ - nhân viên phiên dịch của Sở Tin tức Mỹ. Tống Kỳ tiên sinh là con của Tống Xuân Phảng, một nhà biên kịch nổi tiếng. Năm 1948, anh đến Hương Cảng, rồi công tác tại bộ phận biên tập sách báo của Sở Tin tức Mỹ, Công ty Điện Mậu Ảnh Nghiệp và Công ty Điện ảnh Thiệu Thị. Anh trung thành với văn học cổ điển Trung Quốc, có nhiều nghiên cứu mới mẻ và đặc biệt về Hồng lâu mộng. Cũng chính vì Hồng lâu, Trương Ái Linh và anh càng có chung hứng thú và kiến giải tương đồng với nhau.
Vợ chồng Tống Kỳ sống ở Thượng Hải vào những năm 40, nên họ ngưỡng mộ Trương Ái Linh đã lâu, từ lâu đã là độc giả trung thành của cô. Không ngờ cơ duyên trùng hợp, khiến họ gặp nhau ở Hương Cảng, từ đó, tình bạn của họ kéo dài đến tận cuối đời. Về chuyện tình cảm của Trương Ái Linh, họ đều không lạ gì, những lúc nói chuyện cũng nhắc đến, nhưng Trương Ái Linh thường không bàn luận gì. Về sau, hai vợ chồng họ không bao giờ nhắc lại quá khứ dâu bể của cô nữa.
Ở Hương Cảng, Trương Ái Linh tứ cố vô thân, vợ chồng Tống Kỳ đã giúp đỡ cô rất nhiều. Để một phụ nữ đơn thân như cô bị bên ngoài quấy nhiễu, vợ chồng họ đã tìm thuê giúp Trương Ái Linh một căn nhà ở khu gần nhà họ ở. Cứ như thế, họ qua lại thăm hỏi nhau nhiều lần hơn. Đều là những người sống tình cảm, lại cùng định cư ở Thượng Hải, những điểm chung này đã đem đến biết bao tình cảm ấm áp cho Trương Ái Linh khi cô đang cô độc nơi chân trời góc bể. Cho dù Thượng Hải đã mang lại quá nhiều vết thương cho cô, nhưng vầng trăng sáng của cố hương, lại khiến cô nhớ nhung sâu đậm.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian